TRANH GƯƠNG CUNG ĐÌNH HUẾ TRONG DÒNG CHẢY LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA VIỆT

.

.

Xứ Huế - cái nôi của nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuật độc đáo, trữ tình và thơ mộng. Trong đó có nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuật đã được Việt Nam cũng như Thế giới công nhận là di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của cả nước, của nhân loại....Loại hình nghệ thuật này có cách thể hiện cũng như chất liệu khác lạ, hiện loại hình tranh gương này chỉ còn lại số lượng khá ít, nhiều bức họa đã bị mai một và bị hỏng, không còn nguyên vẹn.
               Dẫn luận
               Nhà Nguyễn - một triều đại mang trong mình rất nhiều thăng trầm của lịch sử. Với 13 đời Vua và 143 năm trị vì, Nhà Nguyễn đã để lại cho hậu thế khối di sản văn hóa, nghệ thuật vật thể, phi vật thể đồ sộ. Các di sản của Cố đô mang trong mình nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ, cho tâm hồn đất và người xứ Huế. Bao thế hệ đã qua, những tinh hoa đã hội tụ và hun đúc, chắt lọc, tạo nên một nền văn hóa, nghệ thuật đậm đà bản sắc của xứ Huế mà không nơi nào có được. Ở đó, có nghệ thuật tranh gương, có những bức bích họa trên gương đã được nâng niu và truyền giữ từ các vị vua triều Nguyễn. Những tác phẩm bích họa trên gương này chỉ được xuất hiện trong chốn cung đình triều Nguyễn. Được đóng trong khung gỗ, sơn son thiếp vàng rất cầu kỳ. Đó là những tác phẩm bích họa độc lập và đặc sắc từ triều Nguyễn để lại cho hậu thế của dân tộc.
Theo nhà nghiên cứu Thái Văn Kiểm, tác giả cuốn Cố đô Huế (cùng lời truyền của một số người cao tuổi ở Huế) nhận định: Tranh gương cung đình Nguyễn đa phần được các Vua triều Nguyễn đặt hàng vẽ từ Trung Quốc. Nguyên là vua Thiệu Trị (1841-1847) có tập thơ Thần kinh nhị thập cảnh, vịnh 20 cảnh đẹp của đất Huế, đã gửi các bài thơ này qua Trung Quốc đặt vẽ. Một bài thơ này được thể hiện thành một bức tranh gương, sau đó mới mang trở về kinh đô Huế, treo ở tại các miến điện [1]. Mặc dù vậy, nhưng các tác phẩm tranh gương đó lại mang trong mình những nội dung và các yếu tố đặc trưng riêng của nền nghệ thuật Cố đô Huế.
               Các loại hình tranh gương
               Giáo sư Chu Quang Trứ thì cho rằng: “Đối chiếu số tranh được biết, nguồn tài liệu trên đáng tin, song không hoàn toàn đúng với số tranh hiện có dù chỉ ở ngay trong các điện thờ” [2]. Theo giáo sư, tranh gương xứ Huế có 3 nguồn xuất xứ ứng với ba dòng tranh gương sau:
Dòng tranh với các bài thơ ngự chế - tranh thi họa: Loại tranh gương này do các Vua triều Nguyễn đặt hàng từ Trung Quốc, do các nghệ nhân Trung Quốc vẽ. Các tác phẩm thuộc dòng tranh này được vua Thiệu Trị (1841 - 1847) - vị vua thứ ba của vương triều Nguyễn tại Đại Nam ngự chế về hai mươi thắng cảnh của đất Thần Kinh xưa do vua xếp hạng. Chùm thơ của vua Thiệu Trị có 20 bài thơ ca ngợi thắng cảnh đẹp của thiên nhiên xứ Huế trên đất Thần kinh, trong đó gồm 7 thắng cảnh tự nhiên và 13 thắng cảnh nhân tạo, hoặc là sự kết hợp giữa tự nhiên và nhân tạo. Đến năm 1844 đến 1845, Vua Thiệu trị đã ra lệnh cho Nội Các phải cố định hóa chùm thơ của ông bằng nhiều hình thức: In ấn thành sách có minh họa (bộ Ngự đề Đồ Hội Thi tập), hoặc vẽ tranh treo tại các cung điện. Ngoài ra cò có các tác phẩm tranh vịnh các mùa trong năm, vịnh các cảnh vật mà vua bất chợt tức cảnh đề thơ...Cụ thể “Trong lăng Tự Đức, ở điện Xung Khiêm có 12 bức tranh kính, trên góc tranh có bài thơ “Ngự chế” với niên hiệu “Thiệu Trị Ất Tị (tức 1845). Bên điện Lương Khiêm cũng có một số loại tranh này. Tất cả đều được đóng khung, chạm rất cầu kỳ, chi li đến mức tinh tế và thếp vàng rực rỡ” [3]. Đây cũng là dòng tranh gương cao cấp nhất, chỉ được sử dụng trong chốn cung đình triều Nhà Nguyễn (hình 1, 2).
Dòng tranh có chủ đề: Dòng tranh này thể hiện các tích truyện lịch sử, các điển tích trong lịch sử Nho giáo như: Chuyện Chiêu Nho giảng kinh; Dạ phân giảng kinh; Nhậm dụng tam kiệt... “Ở điện Lương Khiêm còn một số tranh không có thơ, có ghi tên tranh thuộc tích truyện lịch sử Trung Quốc, phần lớn thuộc thời Hán” [4].
Dòng tranh gương thứ ba: Là dòng tranh gương tĩnh vật với hai chủ đề chính là: tranh bát bửu cồ đồ và tranh về các loại hoa quả. Các bức bích họa tĩnh vật được triều Nguyễn treo tại lăng Minh Mạng và lăng Đồng Khánh. Đây là dòng tranh do người Việt sáng tác, chúng có niên đại vào khoảng những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. “Loại tranh kính thứ 3 có ba bức ở điện Sùng Ân trong lăng Minh Mạng và mười bức ở điện Ngưng Hy trong lăng Đồng Khánh. Những tranh này nhỏ hơn hai loại tranh trên một chút, được lồng trong cái khung gỗ lòng máng trang trí diềm lá sòi hay cuốn thư có hình rồng. Về đề tài, tất cả đều thuộc loại tranh tĩnh vật vẽ các lễ vật đặt trên “tam sơn” như một bàn thờ (kiểu tranh Chủ dân gian Đông Hồ)” [5].
            Chất liệu đặc sắc cùng lối vẽ/ trạm khảm đặc biệt
            Tranh gương tuy có nhiều chủ đề khác nhau, nhưng đều giống nhau về kỹ thuật, về cách vẽ, và về cách phối màu trong tranh. Chất liệu của tranh gương là bột màu pha keo, hoặc sơn, được các nghệ nhân vẽ hoặc khảm xà cừ trực tiếp vào mặt sau của gương theo lối “phản họa”. Đây là lối vẽ âm bản ở mặt sau để khi nhìn mặt trước của tranh thành dương bản. Lối vẽ này đã khiến cho các tác phẩm tranh gương trở thành những tác phẩm bích họa đặc biệt, có giá trị cả về mặt thẩm mỹ, nghệ thuật và cả về mặt lịch sử văn hóa.
Theo PGS.TS Phan Thanh Bình, hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế nhận định: “Kỹ thuật vẽ ngược chiều đòi hỏi họa sĩ, nghệ nhân phải hết sức tài hoa, khéo léo và có trí tưởng tượng cực kỳ phong phú mới có thể thực hiện được.
Do kỹ thuật phức tạp, sự tư duy về mặt hình tượng là rất riêng. Người vẽ phải tưởng tượng phía bên kia (mặt trái) để nhìn xuyên từ kính qua (mặt phải) đòi hỏi dự phối hợp giữa tư duy, kỹ thuật, chất liệu và đặc trưng phản ánh. Vì thế mà trong từng đường nét cũng phải tính toán là nét trên hay nét dưới, độ đậm như thế nào, từng mảng màu chồng, phối hợp như thế nào để tạo ra hiệu quả của cách nhìn. Bố cục, không gian, tả về chiều sâu cũng cũng phải như vậy. Tất cả tạo nên nét riêng, độc đáo và cực kỳ tinh tế của tranh gương và đó cũng chính là những đặc trưng mà không có loại hình mỹ thuật nào của Huế có được"
            Giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật
            Từ chất liệu và lối vẽ đặc sắc, cùng nội dung tinh tế, tranh gương xứ Huế đã khẳng định được giá trị to lớn về thẩm mỹ và nghệ thuật. Mỗi một dòng tranh lại toát lên một vẻ đẹp riêng ẩn dấu trong đó.
            Ở dòng tranh gương cao cấp - tranh ngự chế, tranh vịnh cảnh: Các tác phẩm bích họa của dòng tranh này gần như còn khá nguyên vẹn. Các tác phẩm ngự chế 20 cảnh đẹp của xứ Thần Kinh như Trùng minh viễn chiếu, Vĩnh Thiệu Phương Văn, Thiên Mụ Chung Thanh, Thường Mậu quan canh...tất cả các bức bích họa này đều mô tả và ca tụng cảnh đẹp hữu tình xứ Huế và ăn khớp tài tình với các tác phẩm thơ bên cạnh. Bên cạnh đó, các tác phẩm bích họa các bài thơ vịnh các mùa trong năm, vịnh các cảnh mà vua bất chợt tức cảnh như: Nguyệt ảnh, Sơn quang, Giang luyện....tất cả các tác phẩm vịnh đều được bích họa lại rất thơ mộng và hữu tình.
Dù tác phẩm bích họa ngự chế hay vịnh cảnh, vịnh màu đều mang phong cách vẽ, cách sử dụng màu tương đối giống nhau: “Hầu hết những tranh này thiên về bảng màu lạnh, cảnh sắc và cả mái nhà đều là màu xanh, mây trời cũng trắng xanh, chỉ có cột nhà đỏ và viền nét vàng. Tất cả được vẽ rất chi tiết, mảng màu vờn chuyển sắc độ tinh tế, các nhân vật được tỉa tót tỉ mỉ, bố cục dựa trên viễn cận xã hội theo tâm lý ngược với chiều nhìn tự nhiên. Họa gia tưởng tượng những cảnh trong thơ của vua Thiệu Trị theo thiên nhiên xứ lạnh mà họ đang sống và thể hiện theo lối “công bút” rất cẩn thận. Những tranh này vẽ trực tiếp lên mặt sau của kính, vẽ và viết theo lối “bản âm” để khi nhìn mặt trước trở thành bản dương, màu ngoài vẽ trước, màu trong vẽ sau và cuối cùng mới vẽ màu nền. Màu tốt bền, ngày nay vẫn giữ nguyên”[6]. Bố cục các tác phẩm dựa trên cái nhìn xa trông rộng về xã hội phong kiến, lối vẽ, lối trạm khắc tự nhiên nhưng phóng khoáng, nhiều chi tiết cầu kỳ, sinh động, và bắt mắt. Tất cả các thiên nhiên tự nhiên hay nhân tạo trong tranh đều được ôm trọn và được bảo vệ dưới bầu trời có những đám mây uốn khúc mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ sức mạnh và sự ca tụng triều đình Nhà Nguyễn, ca tụng sự trị vì, sự bao bọc ngự trị cao cả nhằm đem lại một cuộc sống tươi đẹp, ấm no cho người dân Đại Nam của các vua chúa Nhà Nguyễn thời bấy giờ.
              Ở dòng tranh bích họa lịch sử Nho giáo, mặc dù kỹ thuật vẽ không cầu kỳ bằng dòng tranh gương ngự chế, nhưng nhiều tác phẩm vẫn có độ tỉ mỉ, tỉa tót. Màu sắc chính của dòng tranh này thường là màu đỏ, màu ấm. Nhưng do không được đầu tư kỹ lưỡng về kỹ thuật, nhiều tác phẩm đã bị bong tróc lớp sơn do trong quá trình vẽ, sơn không được pha chế kỹ lưỡng và cẩn thận. Do không mang yếu tố chất lượng, cho nên có ý kiến cho rằng nhiều bức tranh loại này là do người Trung Quốc vẽ sẵn, được mang ra các sạp bầy bán sẵn ở chợ. Sau đó các Sứ Bộ Nhà Nguyễn đi sứ nhà Thanh trên đường về đã mua các bức tranh này và mang về Đại Nam.
Dòng tranh gương thứ ba của cung đình Huế, có đề tài về bát bửu cồ đồ và tranh về các loại hoa quả. Dòng tranh này mang hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Nếu giáo sư Chu Quang Trứ cho rằng “Tranh kính loại 3 này có đề tài đơn giản, kỹ thuật vẽ còn thô vụng, nghệ thuật hòa sắc còn tùy tiện, mới chỉ ở bước thể nghiệm cho một loại tranh bắt chước tự phát hàng nhập của Trung Quốc. Có thể tin chắc những tranh kính này do người Việt chưa được trang bị đầy đủ kiến thức nghề nghiệp, vẽ ra ở cuối thế kỷ trước sang đầu thế kỷ này”[7]. Bên cạnh đó là dòng ý kiến trái chiều với giáo sư Chu Quang Trứ. Có một số nhà nghiên cứu ở Huế lại đưa ra nhận định rằng chất lượng nghệ thuật của dòng tranh này khá cao “Sự hiện diện của tranh gương tĩnh vật thời Nguyễn được chứng tỏ qua 10 bức tranh gương cỡ 50x60cm, treo trên tường các cột ngoài của chính điện lăng Đồng Khánh. Họa tiết gồm bình hoa quả phẩm, lư trầm hay nghiên bút… đặt trên những chiếc kỷ biến đổi nhiều dáng, được viền bằng những đường hồi văn; màu sắc phong phú, thường là màu nền khói hương, hoặc xanh da trời, hoặc đen huyền, trên đó nổi bật màu đỏ chu của lỷ, màu xanh ngọc của bình hoa… làm cho bức tranh tĩnh vật nào cũng lộng lẫy mà có duyên thầm”[8]. Có thể thấy tuy cùng một dòng tranh nhưng đã xuất hiện hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Nhưng dù luồng ý kiến nào thì dòng tranh này vẫn là sản phẩm đích thị của người Việt, do người Việt tạo dựng nên. Cho dù chưa được khẳng định về độ cầu kỳ, tỉ mỉ nhưng các tác phẩm này đã phản ánh đúng tâm hồn, sự ngây thơ thật thà cũng như suy nghĩ giản đơn của người Đại Nam lúc đó. 
Có thể nói, dù dòng tranh ngự chế cao cấp hay dòng tranh tĩnh vật giản đơn, thì các tác phẩm tranh gương xứ Huế vẫn là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị cao về mặt thẩm mỹ. Ở loại hình tranh gương này, màu sắc trong tranh trở thành ngôn ngữ độc quyền của mảng nghệ thuật riêng biệt. Ngoài ra, các tác phẩm tranh gương được lồng trong khung sơn son thếp vàng chạm nổi những chi tiết hoa trái trời mây. Có tác phẩm khi được thếp vàng dùng vàng thật với một chất kết dính đặc biệt, màu vàng của khung không bao giờ phai màu, luôn giữ được sự óng ánh lung linh quyền quý của chất liệu này. Mặc dù trải qua đủ thăng trầm trong dòng chảy lịch sử văn hóa, nhưng sự óng ánh tươi tắn và rực rỡ của các tác phẩm tranh gương sơn son thếp vàng vẫn luôn như mới, có độ phát quang lan tỏa giữa các màu trong tranh.
Đồng thời qua các tác phẩm tranh gương còn phản ánh được tình hình, diện mạo của nền mỹ thuật triều Nguyễn và nói nên nhận thức của một thời đại đã qua, là lăng kính để thế hệ sau có thể nhìn lại và học tập.
               Giá trị về lịch sử
              Trên phương diện thưởng ngoạn, những bức bích họa trên gương có thể đơn thuần nói lên cảnh đẹp của thiên nhiên, phong cảnh non nước hữu tình của xứ Huế, tài hoa của người nghệ nhân vẽ hoặc khảm tranh, sự chi li tỷ mỷ của người làm khung, và sự xuất chúng của người ngự chế. Nhưng với người nhà nghiên cứu, bên cạnh giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật, ở mỗi tác phẩm tranh gương lại mang trong mình những cứ liệu lịch sử quan trọng. Đặc biệt, ở các tác phẩm bích họa đề vịnh hai mươi cảnh đẹp của xứ Huế, đó là những nguồn tư liệu căn cứ quý giá trong việc trùng tu phục dựng các di tích có trong thơ. Khi nhắc đến những giá trị về mặt lịch sử của các bức bích họa, TS Phan Thanh Hải - giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế khẳng định: “Với chúng tôi loại tranh gương có giá trị lịch sử rất lớn bên cạnh giá trị nghệ thuật, nhất là bộ Thần kinh nhị thập cảnh  vịnh  20 cảnh đẹp của đất thần kinh hay một số thắng cảnh của cố đô Huế ngoài những cảnh chính còn được vẽ rất nhiều tiểu cảnh nổi tiếng như bộ tranh vẽ các cảnh của vườn Cơ Hạ hay vẽ về các cảnh của hồ Tịnh Tâm. Việc nghiên cứu phục hồi các di sản văn hóa, đặc biệt với các vườn thượng uyển, các danh thắng nổi tiếng của cố đô Huế phải căn cứ vào rất nhiều nguồn tư liệu. Tư liệu về tranh gương hết sức quý vì nó phản ánh rất trực quan, sinh động phong cảnh đúng của triều Nguyễn khi xưa mà đã được thể hiện  trước hết là bởi các họa sĩ, các nghệ nhân của Bộ Công của  triều Nguyễn và sau đó được các họa sĩ Trung Hoa thể hiện trên tranh gương.”(hình 3,4)
              Tác phẩm bích họa còn lại
              Theo thời gian, các tác phẩm tranh gương cung đình Huế đã được Nhà nước và cả tư nhân trưng bày, cất giữ. Trên đại bàn cố đô Huế, tranh gương đang được bảo quản tại một số di tích như: Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế, các lăng, tẩm của khu di tích Cố đô. Ngoài ra còn có ở Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Huế, và tại bộ sưu tầm cá nhân của ông Trần Đình Sơn ở thành phố Hồ Chí Minh....Số lượng cụ thể các tác phẩm tranh gương còn lại cũng được lưu trữ và bảo tồn giải rác:
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế: 19 bức, trong đó 6 bức đang được treo tại điện Long An (hình 5), 13 bức còn lại được lưu trữ trong khoa của Bảo tàng, trong số 13 bức còn lại, có đến 9 bức chỉ còn lại khung, và 4 bức đã bị hư hỏng nặng.
Cung Diên Thọ có 8 bức  đang được treo tại chính điện.
              Lăng Tự đức hiện còn 24 bức, được treo tại Điện Hòa Khiêm (16 bức) và Điện Lương Khiêm (8 bức, ban đầu có 12 bức, nhưng 4 bức đã bị mất).
              Lăng Thiệu Trị: có 23 bức, trong đó: 17 bức tĩnh vật về chủ đề bát bửu cổ đồ, 4 bức tranh lớn chia ô trang trí, 2 bức tranh thơ treo tại chính điện (bên tả, bên hữu)
              Điện Biểu Đức: 3 bức gồm: Bức ở gian trái; bức gương lớn ở gian trái; bức tranh gương ở gian hữu
              Khoa Sử, Đại học Khoa học Huế lưu trữ 2 bức thi họa   
              Lăng Minh Mạng (điện Sùng Ân): 1 bức tranh gương tĩnh vật, không đề thơ
              Điện Huệ Nam: 2 bức treo tại nội điện, 7 bức đại đồ đệ của Thánh mẫu
              Chùa Báo Quốc: 2 bức tĩnh vật cổ đồ bát bửu
              Lăng Đồng Khánh (điện Ngưng Hy): hiện lưu trữ 10 bức tranh tĩnh vật cổ đồ bát bửu
              Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn: 1 bức tĩnh vật giống bức ở lăng Đồng Khánh
              Hiện nay, theo thống kê của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế thì số lượng tranh gương cung đình Huế còn lại gần 100 bức, nhưng có điều trong số đó hơn một nửa tác phẩm đã bị hư hỏng theo nhiều mức độ khác nhau và cần phải có phương án để bảo tồn bởi đây là loại bích họa độc đáo, quý hiếm vì mỗi tác phẩm chỉ có duy nhất một bản, và mang trong mình nhiều bản sắc đặc trưng của mỹ thuật cung đình Nhà Nguyễn
            Bảo tồn và lưu giữ
            Tranh gương xứ Huế đã tồn tại song hành cùng thời gian hàng trăm năm nay. Mặc dù mang trong mình bản sắc độc đáo và riêng biệt của cố đô, mang trong mình giá trị về thẩm mỹ, giá trị về mặt lịch sử nhưng loại tranh này đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Việt Nam là nước có nền khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, với nền khí hậu như vậy đã ảnh hưởng đến sự bảo tồn cho các tác phẩm tranh gương. Và có lẽ bên cạnh sự tàn phá của khí hậu còn có sự lãng quên của người Việt, bởi có nhiều ý kiến cho rằng tranh gương là sản phẩm được du nhập từ Trung Quốc, do người Trung Quốc vẽ hoặc khảm, có các tác phẩm còn vẽ theo lịch sử Nho giáo, điển tích của Trung Quốc. Chính vì vậy cho nên dường như các tác phẩm tranh gương đang trên con đường bị lãng quên của các nhà nghiên cứu. Bên cạnh đó, do kỹ thuật vẽ theo lối phản diện đòi hỏi tay nghề cao và nghệ nhân phải có sự tài hoa khéo léo cho nên nghề này khó truyền dạy lại cho thế hệ sau.
            Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cũng có những biện pháp nhằm khôi phục lại các tác phẩm đã và đang bị hư hỏng, nhưng do sự thiếu hụt về mọi mặt như kỹ thuật, vật liệu, nguồn nhân lực,...cho nên sự khắc phục của Trung tâm không được như mong đợi. Và để tránh sự hao mòn dưới tác động của khí hậu, Trung tâm đã trang bị giấy trung tính (phi axit) để bảo quản ở mặt sau của các tác phẩm tranh gương. Nhưng công tác bảo quản này chưa hẳn là phương án tối ứu nhất bởi theo ông Phan Thanh Hải - giám đốc Trung tâm thì “Công tác bảo quản này mang tính ngắn hạn, chỉ đưa lại hiệu quả tích cực trước mắt. Tuy nhiên về lâu dài, giải pháp tối ưu vẫn là chuyển toàn bộ số tranh gương đang treo trang trí tại các di tích về bảo quản tại Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế. Tại kho cổ vật, các tranh gương này sẽ được bảo quản bằng cách đặt trong môi trường nhiệt độ phù hợp, và kiểm soát bằng độ ẩm phù hợp. Đồng thời khi xây dựng hệ thống trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, hướng đến việc trưng bày các bức tranh gương trong hệ thống tủ trưng bày được kiểm soát bằng nhiệt độ phù hợp, có sự kiểm soát.
Ngoài ra, tại các cung điện, Trung tâm cũng chủ trương làm các phiên bản tranh gương để tái trưng bày một cách phù hợp. “Đây cũng là cách làm thông thường của các khu di tích ở các nước. Người ta đưa các hiện vật gốc đến lưu giữ, bảo quản, trưng bày tại các bảo tàng, conf ở các khu di tích sẽ thay thế bằng các phiên bản hoặc bản phục chế để tái hiện cảnh quan với mục đích tìm cách gìn giữ sự nguyên vẹn tối đa ở mức có thể cho các cổ vật có nguy cơ bị xuống cấp, hư hỏng tự nhiên”
Và để có thể có những phương án bảo tồn và lưu trữ nguyên vẹn sự độc đáo, đặc sắc của các tác phẩm tranh gương, cần có những sự nghiên cứu và đầu tư phù hợp của cả chính quyền và các nhà nghiên cứu. Phải có sự chung tay và tâm huyết thì mới có thể bảo tồn nguyên vẹn những giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật, lịch sử của các tác phẩm tranh gương cung đình Huế.
             Kết luận
             Dẫu đã trải qua những năm tháng bồi lở của dòng chảy lịch sử, của văn hóa đất Việt, nhưng đến nay các tác phẩm tranh gương xứ Huế vẫn đang tồn tại cùng thời gian và vẫn gắng giữ lại trong mình màu sắc, giá trị riêng biệt của loại hình tranh gương độc đáo này.
Qua bao thăng trầm và sự phát triển của xã hội, cùng với sự tiếp biến văn hóa, Việt Nam đã phát triển và du nhập nhiều loại hình nghệ thuật mới. Nhưng song hành cùng nghệ thuật mới thì những giá trị của các tác phẩm nghệ thuật cổ xưa vẫn là những giá trị trường tồn, là gương soi để các nền nghệ thuật về sau có sự so sánh và tiếp truyền
            Ở loại hình nghệ thuật tranh gương cung đình Huế, không những là giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử, mà nó còn mang giá trị tinh thần của dân tộc, phản ánh những tinh hoa trí tuệ của cha ông đi trước. Để thế hệ con cháu đời sau có cơ hội tìm kiếm thấy.
            Có thể nói rằng việc bảo tồn những giá trị xưa cũ chính là bảo tồn và lưu giữ truyền thống dân tộc, hướng về văn hóa nghệ thuật cội nguồn.
Tranh gương cung đình Huế sẽ mãi là những nguồn tư liệu lịch sử quý giá và nguồn tư liệu văn hóa quan trọng để tiếp nối các thế hệ sau tìm hiểu và nghiên cứu về nền văn hóa nghệ thuật cũng như tìm hiểu về lịch sử của xứ cố đô Huế dưới các triều đại Nhà Nguyễn.

ThS. NCS Nguyễn Thị Bích Liễu
 
Tài liệu tham khảo
1. [1, 2, 6]. Mỹ thuật Huế, Nguyễn Tiến Cảnh chủ biên. Viện Mỹ Thuật - Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, 1992, tr. 107-109.
2. [3,4,5,7]. Văn hóa - Mỹ ththuật Huế, Chu Quang Trứ chủ biên. Nxb Thuận Hóa, 1998, tr. 124 - 125.
3. [8]. Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế. Nguyễn Hữu Thông chủ biên. Nxb Hội nhà văn, 1992, tr.167.
4. Tổng quan về tranh gương cung đình Huế. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế. 


Phụ lục ảnh
Hình 1. Dòng tranh gương ngự chế - Ảnh: Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế
 
Hình 2. Dòng tranh gương vịnh cảnh có đề thơ bề mặt
 - Ảnh: Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế
Hình 3. Bức bích họa “Cảnh hồ Tịnh Tâm” - Ảnh: Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế
 
                                    
Hình 4. Bức bích họa “Cảnh vườn Thiệu Phương” - Ảnh: TT bảo tồn di tích Cố đô Huế
 
Hình 5. 6 bức tranh gương quý hiếm được treo trên hàng cột điện Long An
 Ảnh: TT Bảo tồn di tích Cố đô Huế