TRANH QUẢNG CÁO, TRANH CỔ ĐỘNG (POSTER) VÀ NHÃN MÁC IN KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1946-1954
- Thứ tư - 15/03/2017 16:34
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến thương nghiệp không phát triển, nên không cần đến quảng cáo, việc quảng cáo bằng đồ họa ấn loát cũng chưa hình thành rõ nét, mặc dù vài cửa hàng cửa hiệu ở Thăng Long xưa có vẽ nhãn cửa hàng và treo sản phẩm ra ngoài cửa, coi đó như là quảng cáo. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp tạm ổn định nền cai trị thuộc địa, một số đô thị bắt đầu phát triển thương mại bên cạnh nền thương mại tiểu thủ công trong các phường thợ và buôn bán phong kiến. Giai tầng tiểu tư sản thị dân hình thành cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản non yếu ở Việt Nam. Nhu cầu thị trường luôn gắn liền với quảng cáo, biển hiệu trên các cửa hiệu, áp phích cho thương mại thường xuyên hay từng đợt ra đời trong các đô thị, trong đó áp phích in khắc gỗ tương đối phổ biến.
Khi nền sản xuất tư bản manh nha mới hình thành ở các đô thị thời thuộc Pháp, nhãn mác, bao bì hàng hóa lần đầu xuất hiện, tùy theo loại hàng hóa mà người ta sử dụng phương tiện phù hợp để quảng cáo. Những biển hiệu thường được kẻ vẽ bằng sơn lên tấm gỗ, tấm tôn, hoặc trực tiếp lên tường nhà (mi cửa). Còn hàng hóa luôn có gói bao bì to nhỏ nhất định, mà phần lớn in chữ nghĩa, dấu hiệu, biểu trưng (như logo) in nhỏ bằng khắc gỗ trên tờ giấy. Bao giờ trên những nhãn mác này cũng có logo, chữ viết (cửa hiệu, giá thành, lời giới thiệu ngắn về sản phẩm và có thể có một hình vẽ gì đó liên quan đến sản phẩm hoặc gia chủ. Ví dụ dầu cao con hổ, thì vẽ con hổ, cao Ban long vẽ đầu con hươu). Đối với nhãn mác cỡ nhỏ, đôi khi người ta thiết kế hàng loạt đồng đều nhãn mác trên một khuôn in, in xong thì cắt rời ra và dán cho từng bao bì sản phẩm. Màu sắc của nhãn mác cũng quan trọng đối với ấn tượng thị giác, nhưng do in màu trên bản gỗ, nên các bản in thường chỉ thiết kế một hai màu và bản in nét đen hoặc in một bản nét đen trên giấy đã nhuộm màu.
Sau Cách mạng tháng Tám, áp phích quảng cáo thương mại không phát triển do tình hình chiến tranh và tranh áp phích được sử dụng với yêu cầu mới là tuyên truyền đường lối Kháng chiến Kiến quốc của chính phủ Kháng chiến và địch vận, từ đó người ta gọi là tranh cổ động - có ý nghĩa là thúc giục, động viên. Ba kỹ thuật đồ họa được dùng trong in tranh cổ động thời kháng chiến chống Pháp là in đá, in lưới và in khắc gỗ tùy từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trong cuốn Bàn về tranh cổ động Việt Nam có viết: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, các họa sỹ ra tiền tuyến đã sáng tác tại chỗ nhiều tranh áp phích góp phần tích cực vào công tác cổ động chiến đấu. Phương tiện của ta thời đó còn thiếu thốn, nên tranh vẽ thường nhỏ, in gỗ hoặc in đá; có khi không in được, họa sỹ một ngày vài ba tờ tranh, kèm theo ca dao, hoặc câu khẩu hiệu, rồi tự đem dán luôn cho bà con xem” [2, tr.9] và phát biểu của Trường Chinh: “Khi đã có những tranh vẽ thành công thì phải cố gắng in và phát hành cho tới quần chúng” [1, tr.9]. Hai đoạn viết trên cho thấy sự cần thiết của tranh áp phích với cuộc kháng chiến kiến quốc trong những năm 1946 - 1954 và trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Phương tiện in khắc gỗ tranh cổ động được nhắc đến, tất nhiên là điều kiện thời gian đó, in khắc gỗ là đơn giản nhất, gỗ thì không thiếu, chỉ cần ít mực màu, hay sơn, lối in tùy theo in ngửa hay in sấp (bản gỗ), việc khắc cũng đơn giản… và phương tiện này tuy thô sơ, nhưng thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh.
Các tranh cổ động thường được các họa sỹ vẽ tay cho đến tận những năm 1980. Rồi từ tranh vẽ tay, người ta sẽ tổ chức in thành nhiều bản bằng các phương tiện trên, phát cho các địa phương và đơn vị bộ đội trong kháng chiến, nhằm tuyên truyền đường lối của Đảng và nhà nước. Tranh in đá có khả năng chuyển thể bản vẽ rất tốt, nhưng kiếm được khổ đá lớn tương đối khó, nên chỉ thuận tiện cho việc in khẩu hiệu, truyền đơn cỡ nhỏ. Tranh in lưới làm tương đối dễ dàng hơn và có thể in tranh cổ động cỡ nhỏ và vừa, ghép lại có thể in được cỡ lớn, nhưng vật liệu cũng không dễ kiếm trong chiến tranh. Riêng in khắc gỗ, với những họa sỹ sống ở rừng trên chiến khu không khó kiếm gỗ, nên tranh cổ động in bằng gỗ cũng có nhiều trong thời kháng chiến chống Pháp.
Tranh tuyên truyền cổ động thời trước Cách mạng tháng 8/1945 và sau Cách mạng tháng 8/1945 đến năm 1954 có thể chia thành các loại sau: Tờ bướm và truyền đơn, báo tường và báo phát hành không định kỳ, tranh cổ động truyên truyền, truyện tranh. Những loại này được nghiên cứu từ các tư liệu của các bảo tàng trong nước, có thể được vẽ tay, in lưới, in đá, in typo và in khắc gỗ, trong đó in khắc gỗ hết sức phổ biến, do hình thức này đơn giản, tất cả các địa phương đều có thể làm được. Đây là nguồn tư liệu hết sức phong phú có giá trị lịch sử và mặt khác cho biết kỹ thuật in khắc gỗ được phổ biến trong kháng chiến chống Pháp ở mức độ rộng.
Tờ bướm và truyền đơn
Một số bức tờ bướm và truyền đơn in khắc gỗ đơn giản một màu được tìm thấy trong sưu tập của Bảo tàng Cách Mạng. Bức Hậu phương hưởng ứng chiến thắng được làm trong những năm 1950 - 1952, trong và sau chiến dịch Biên giới khắc họa hai hoạt cảnh đi dân công và nộp thóc thuế in khắc gỗ nét đen và tô màu bằng tay, trên đề bốn câu thơ lục bát kêu gọi đóng thuế bằng thóc:
Đồng bào phấn khởi thi đua
Nộp nhanh thóc thuế đủ, khô, sạch, vàng
Dân công hăng hái lên đường
Hợp cùng bộ đội tiền phương diệt thù
Vào khoảng những năm 1948 - 1950, một tờ bướm được in với nhan đề Những thắng lợi của ta với sáu khoảng ô tranh giới thiệu các tương quan của ta và địch trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính và hai ô kết luận ta nhất định thắng, Pháp nhất định thua. Tờ bướm này in đen trắng khổ nhỏ, với nhiều hình vẽ chi tiết nói về tình hình xã hội thời kháng chiến chống Pháp. Chúng ta còn có thể thấy nhiều những tờ bướm như vậy, chúng được phát cho nhân dân trong các vùng mà bộ đội Việt Minh đi qua, đôi khi được rải như truyền đơn vào trong vùng địch hậu.
Báo tường và báo phát hành không định kỳ
Hình thức báo tường rất phổ biến trong thời kỳ chiến tranh, những trường học, đơn vị bộ đội, sản xuất đều có thể tự làm một tờ báo tường vẽ và viết tay treo lên cho mọi người cùng xem, đến năm 1975 người ta vẫn còn làm báo tường. Trong kháng chiến chống Pháp, những tờ thông tin dạng báo tường in khắc gỗ, in lưới và in đá cũng phổ biến nhằm tuyên truyền đường lối của chính phủ Kháng chiến, và cung cấp những thông tin chiến trường cho nhân dân và quân đội. Những tờ báo này được các khu vực do ta quản lý phát hành, thường xuyên hoặc không thường xuyên, tất nhiên không phải là tờ báo cố định theo đúng nghĩa báo chí ngày nay, mà có lẽ chỉ là những tờ thông tin, có thể thay đổi tên và nhãn hiệu.
Báo tường và báo phát hành không định kỳ
Hình thức báo tường rất phổ biến trong thời kỳ chiến tranh, những trường học, đơn vị bộ đội, sản xuất đều có thể tự làm một tờ báo tường vẽ và viết tay treo lên cho mọi người cùng xem, đến năm 1975 người ta vẫn còn làm báo tường. Trong kháng chiến chống Pháp, những tờ thông tin dạng báo tường in khắc gỗ, in lưới và in đá cũng phổ biến nhằm tuyên truyền đường lối của chính phủ Kháng chiến, và cung cấp những thông tin chiến trường cho nhân dân và quân đội. Những tờ báo này được các khu vực do ta quản lý phát hành, thường xuyên hoặc không thường xuyên, tất nhiên không phải là tờ báo cố định theo đúng nghĩa báo chí ngày nay, mà có lẽ chỉ là những tờ thông tin, có thể thay đổi tên và nhãn hiệu.
Một tờ báo tường Kỷ niệm Cách mạng tháng 8 và ngày quốc khánh độc lập năm 1951, do ty Thông tin Hưng Yên phát hành. Tờ báo này gồm hai mặt in thành hai tờ để dán lên tường, mỗi mặt có sáu tranh và nội dung viết. Những tờ báo kiểu này, nội dung chữ rất ít thường tóm tắt như truyện tranh, còn bên trên là hình vẽ minh họa cho dễ hiểu.
Nội dung:
1. Cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 Phát xít Nhật đã hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương. Đế quốc Pháp đã đầu hàng một cách nhục nhã.
2. Đế quốc Pháp và Phát xít Nhật cướp phá hủy hoại thóc lúa của dân ta. Chúng gây ra nạn đói khủng khiếp tháng 3-1945, làm hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
3. Trước thủ đoạn dã man đó, Mặt trận Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân đánh phá các kho của Nhật Pháp chia cho dân nghèo.
4. Các cán bộ Việt Minh đã xuất hiện trong toàn quốc và đã tổ chức khu giải phóng tại Việt Bắc.
5. Tháng 8-1945 tại hội nghị Tân Trào, Hồ Chủ tịch hạ lệnh tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền cho nhân dân.
6. Ngày 19-8-45 dưới sự lãnh đạo của Việt Minh hơn 3 vạn người đã biểu tình võ trang giành lấy chính quyền ở Thủ đô Hà Nội.
7. Mồng 2-9-45 tại vườn hoa Ba Đình, Hồ Chủ tịch đã trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn Độc lập trước nhân dân toàn quốc và thế giới.
8. Nấp sau lưng quân đội Đế quốc Anh, giặc Pháp gây hấn trong Nam bộ 23-9-45. Nhân dân Nam bộ đã vùng dậy và anh dũng kháng chiến.
9. Để nêu cao ý chí hòa bình của nhân dân ta, Hồ Chủ tịch đã ký hiệp định Sơ bộ 6-3-46 với đại biểu chính phủ Pháp.
10. Bản hiệp định và bản tạm ước 14-9-46, ký chưa ráo mực giặc Pháp vẫn tiếp tục khiêu khích và ngoạm dần đất đai của ta. Ngày 19-12-46 quân và dân trong toàn quốc đã vùng dậy kháng chiến.
11. Từ những đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, quân và dân ta đã trưởng thành trong kháng chiến, tiêu diệt trên 10 vạn quân giặc và đoạt được hàng trăm tấn võ khí của quân Mỹ võ trang cho Pháp và bù nhìn. 12. Toàn quốc đoàn kết đánh Tây / Kháng chiến thắng lợi đón ngày vinh quang.
Năm 1949, ban tuyên huấn binh đoàn chủ lực Cao Bắc Lạng cho ra tờ thông tin Nguy cơ lớn của địch ở Việt Bắc. Tờ thông tin này một mặt in hình vẽ có màu về hình ảnh quân đội Việt Nam thắng trên mặt trận đường số 4 và số 2 trong tháng 9/1949. Mặt sau đăng toàn chữ về thông tin số liệu cụ thể các trận đánh mà ta thu được thắng lợi. Cũng trong tư liệu của Bảo tàng Cách mạng, chúng tôi tìm thấy một tờ báo Du kích - Dân quân, số 3, thuộc loại báo tường, có 15 tranh vẽ và lời chú thích kèm theo nội dung như sau:
1. Quân đội chính quy do Chính phủ tổ chức chỉ có thanh niên con trai.
2. Đội Du kích là do dân tổ chức. Bất kỳ trai gái, già, trẻ ai cũng tham gia được.
3. Cách đánh du kích là đánh úp. Ta nấp kín ở bên đường chờ địch đi qua, bất thình lình đánh úp vào.
4. Hoặc khi địch đóng, ta chờ trời tối mò vào tiêu diệt địch. Phải hết sức bí mật, nhanh chóng.
5. Mục đích du kích là quấy rối địch không để địch ăn ngủ yên.
6. Nơi nào, ngày nào, cũng giết địch một ít. Góp ít thành nhiều dần dần địch phải thua.
7. Mục đích du kích là giúp đỡ bộ đội mọi việc như do thám vận tải, bổ sung, vân… vân…
8. Lại là giữ gìn quê hương ngăn cản địch cướp phá của cải, hãm hiếp đàn bà vân… vân…
9. AI CŨNG ĐÁNH DU KÍCH ĐƯỢC một em bé cầm rổ trứng đến dứ cho địch chạy ra cướp rồi ném lựu đạn cho địch chết hết.
10. Một thầy giáo và học trò, tối nào cũng mò đến chỗ địch đóng, đốt ít pháo. Địch tưởng du kích đến ra sức bắn cả đêm tốn rất nhiều đạn.
11. Một bà già bị địch bắt nấu cơm cho chúng ăn. Bà cụ lén bỏ thuốc độc vào cơm, vào rượu. Địch ăn uống say mê, rồi lấy súng giấu đi…
12…. khóa cửa lại rồi đốt cả nhà. Cả lũ chết cháy hết. Bà cụ được một mớ súng đem cho đội du kích.
13. DÂN QUÂN là nói quân của dân. Con trai từ 18 tuổi khỏe mạnh, phụ nữ khỏe mạnh và tình nguyện đều vào Dân Quân được.
14. Dân Quân canh gác đề phòng Việt gian.
15. Dân Quân giúp việc phá hoại, vận tải, tiếp tế, cứu thương vân… vân…
Tranh cổ động tuyên truyền và truyện tranh
Đây là phần phong phú nhất của đồ họa Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, thu hút nhiều họa sỹ có tài tham gia. Tranh tuyên truyền cổ động được in dưới nhiều hình thức, nói chung không lớn do hoàn cảnh chiến tranh và kỹ thuật in ấn không cho phép. Như trên đã trình bày một phần tranh này được chuyển sang in khắc gỗ, in đá và in lưới, nhưng nếu không có điều kiện họa sỹ phải vẽ tay sau đó giao cho cơ quan thông tin. Giữa tranh cổ động, tờ bướm, và truyền đơn, tờ thông tin đôi khi cũng không khác nhau nhiều, tuy nhiên trong tranh cổ động thường có một hình tượng lớn và khẩu hiệu.
Một số bức tranh cổ động thời kháng chiến chống Pháp để làm ví dụ như sau: Bức thứ nhất về đề tài những người nông dân Tày phá đường ngăn cản bước tiến quân Pháp, trên tranh có đề câu ca tiếng Tày:
Ca tào noọng cuốc liên mừ
Làm tàng số 4 táy tầu dàm pây
Tạm dịch:
Đào đường em cuốc liền tay
Phá đường số 4 xe mày phải bước qua
Bức thứ hai kêu gọi mọi người nước ngoài tham gia kháng chiến kiến quốc và ngụy quân trở về theo ta do tỉnh Tuyên quang phát hành năm 1948, với câu ca:
Hỡi ai yêu nước thương nòi
Trở về Tổ quốc giết loài thực dân
Bức thứ ba nói về tăng gia sản xuất - Giồng khoai để tiết kiệm gạo do Ty thông tin tuyên truyền tỉnh Tuyên Quang phát hành, không rõ năm.
Còn giời còn nước, còn non
Còn một tấc đất ta còn tăng gia
Thêm khoai thì thóc để ra
Còn một tấc đất ta còn tăng gia
Thêm khoai thì thóc để ra
Không lo đói kém cả nhà phởn phơ
Bức thứ tư kêu gọi không đi làm cho Pháp - Quyết không đi làm cho Pháp.
Bức thứ năm nói về chuẩn bị tổng phản công nhân ngày 19/5 sinh nhật Hồ Chủ tịch do ty thông tin tỉnh Tuyên Quang phát hành năm 1950.
Bức thứ năm nói về chuẩn bị tổng phản công nhân ngày 19/5 sinh nhật Hồ Chủ tịch do ty thông tin tỉnh Tuyên Quang phát hành năm 1950.
Bên cạnh tranh cổ động thời kháng chiến chống Pháp, có nhiều nghệ nhân sáng tác tranh dân gian dạng tuyên truyền, trong đó có những nghệ nhân dân gian Đông Hồ. Những bức tranh này được làm theo lối dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, có đề thêm những chữ giải thích hoặc khẩu hiệu tuyên truyền, khá vui vẻ đẹp mắt, khuôn khổ cũng nhỏ như tranh Đông Hồ, một số ít tranh được in trên giấy điệp, có thể do hoàn cảnh thời đó chất liệu không dễ kiếm.
Tranh này được in trên giấy điệp trắng và làm theo lối tranh dân gian Đông Hồ do phòng thông tin tuyên truyền Trung ương phát hành trong khoảng thời gian từ 1945-1954. Với nội dung:
Mặt trời đã gác cành tre
Anh đi giết giặc em về nuôi con
Tài trai trả nợ nước non
Sử xanh ghi nét bút son muôn đời
Ba bức tranh dân gian mới này được ty Thông tin Bắc Giang phát hành theo lối tranh dân gian Đông Hồ, đều do một nghệ nhân có tên là Kỳ vẽ, năm 1949 (Kỷ Sửu). Bức thứ nhất đề: Năm Kỷ Sửu: Toàn dân thi đua tham gia sản xuất diệt giặc đói. Bức thứ hai đề: Năm Kỷ Sửu: Toàn dân thi đua học chữ để diệt giặc dốt. Bức thứ ba: Năm Kỷ Sửu: Toàn dân thi đua diệt giặc Pháp. Người ta tìm thấy không ít những bức tranh dân gian mới cho công tác tuyên truyền thời này, chứng tỏ nó rất phổ biến. Các nghệ nhân dân gian làng Hồ thay vì sản xuất tranh Tết, tranh chúc tụng và tín ngưỡng, cũng tham gia vào in khắc tranh đề cập đến những vấn đề trong xã hội đương thời. Và nếu như trước kia, người nông dân Việt Nam mua tranh dân gian Đông Hồ về treo tết, thì nay họ có thể kiếm những bức tranh dân gian mới, nội dung mới treo tết thay thế. Các cơ quan văn hóa lúc đó (ty thông tin) thường in và phát cho người dân trong các vùng tự do.
Hai bức tranh khắc gỗ in đen trắng vào những năm 1952-1953 Đi cấy đổi công và Bình dân học vụ do nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm thực hiện với nội dung: Đổi công góp sức cùng làm, thi đua tiếng hát rộn ràng đồng quê và Huấn luyện bình dân học vụ hưởng ứng phong trào tăng gia sản xuất, lao động tạp thể dưới hình thức đổi công cho nhau (mặc dù hình thức sản xuất hợp tác xã chưa ra đời) và mở các lớp xóa nạn mù chữ, diệt giặc dốt cho dân chúng lúc được phát động ngay sau Cách mạng Tháng Tám.
Bên cạnh đó còn có bộ tranh truyện, gồm năm bức in khắc liên hoàn như một cuốn truyện, ngoài hình vẽ, có đề thơ nội dung. Chủ đề chung nói về một vùng miền núi nhân dân đoàn kết đánh Tây, có du kích, dân quân, người ở hậu phương sản xuất lương thực đưa ra tiền tuyến. Bộ tranh truyện này có thể được làm vào những năm 1952 - 1953.
Bức 1:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Toàn dân nổi dậy ào ào
Giặc nào chẳng khiếp, Tây nào chẳng ghê.
Bức 2:
Mưa đi gọi nắng xuân về
Nắng về cho dạ say mê chiến trường
Có anh du kích địa phương
Nấp kín bên đường bắn tỉa giặc Tây.
Bức 3:
Cô nàng quẩy gạo đồng quê
Gánh ra tuyền tuyến tay che miệng cười
Đi đâu vội thế noọng ơi
Có đi giết giặc đợi tôi đi cùng.
Bức 4:
Chị vào tiếp tế tải lương
Tôi đi du kích phá đường bắn xe
Mai sau thắng trận trở về
Bên tôi có chị, câu thề lập công.
Bức 5:
Mây trôi gió cuốn ngang trời
Còn non còn nước còn người đánh Tây
Mé ơi vất vả đêm ngày
Mé xay, mé giã gạo này nuôi quân.
Nhãn mác bao bì hàng hóa suốt thời Pháp thuộc và sau hòa bình sử dụng nhiều hình thức in ấn, trong đó in khắc gỗ được sử dụng phổ biến do các ngành sản xuất còn ở quy mô nhỏ, lượng hàng hóa hạn chế. Các loại bao bì, nhãn mác thường thuê họa sỹ hay xưởng in tư nhân bên ngoài thực hiện và ghép vào sản phẩm. Từ thời đầu hòa bình năm 1954 đến những năm 1970, hàng hóa rất khan hiếm, nhất là trong giai đoạn Bao cấp, nhãn mác lúc đó chỉ thường dùng cho một số mặt hàng thông dụng như thuốc lá, chè, bao diêm, bánh kẹo, sách vở… thoạt tiên chúng đều được ấn loát bằng in khắc gỗ. Hình thức in khắc gỗ phổ biến đến mức, khi bao bì bánh kẹo được gói bằng túi ni lông, người ta vẫn dùng khuôn in khắc gỗ in nhãn mác nơi sản xuất lên bao ni lông theo lối in dập. Khi hàng hóa và bao bì được sản xuất quy mô hơn, thì hình thức in nhãn mác bằng khắc gỗ cũng mất đi, và chỉ được tư nhân chủ yếu dùng trong in tiền âm phủ phục vụ tín ngưỡng…
In khắc gỗ là một hình thức đồ họa được sử dụng rộng rãi và lâu dài trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nghệ thuật đồ họa. Từ những bản khắc in kinh Phật đến những ván in tranh dân gian, từ những minh họa sách, báo đến những tác phẩm nghệ thuật, từ những hình thức in ấn quảng cáo đến tranh tuyên truyền, quảng cáo… mỗi một giai đoạn nghệ thuật khắc gỗ đều có những hình thức thể hiện khác nhau và mang một giá trị riêng góp phần khẳng định vai trò của kỹ thuật này trong lịch sử phát triển của nghệ thuật đồ họa Việt Nam từ tạo hình đến ứng dụng./.
----------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Báo Nhân Dân ra ngày 20/1/1974
2. Nguyễn Phan Ngọc, Trần Thị Thục Phi, Dương Ánh (1977), Bàn về tranh cổ động Việt Nam, Trường Cán bộ thông tin.
3. (1977), Tranh cổ động, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
4. Nguyễn Trân (1993), Nghệ thuật đồ họa, Nxb Mỹ thuật.
Hoàng Minh Phúc