ỨNG DỤNG CNTT NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI LIÊN KẾT GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TẠO MTUD

Đăng lúc: Thứ hai - 17/06/2019 21:07 - Người đăng bài viết: Nguyen Quoc Chinh
.

.

Đào tạo MTUD đã và đang có sự biến đổi lớn lao trong Kỷ nguyên KTS do sự ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ thuật. Thị trường biến đổi rất nhanh và nhu cầu nhà tuyển dụng cũng thay đổi. Nhiều ngành nghề mới ra đời, nhiều vị trí công việc mới xuất hiện, nhiều công đoạn mới và yêu cầu kỹ năng mới đòi hỏi nhà thiết kế MTUD phải đáp ứng.
       Ngày nay, nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa biến đổi giáo dục trở thành một dạng dịch vụ đặc biệt trong xã hội. Nó đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải luôn vận động thực hiện tốt 3 chức năng cơ bản là đào tạo, nghiên cứu và cung cấp dịch vụ giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội. Suy cho cùng thì sứ mệnh của các cơ sở đào tạo là cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu xã hội. Người học sau khi ra trường có đủ phẩm chất và năng lực chuyên môn sẵn sàng tham gia vào quá trình lao động sản xuất, kiến thiết xã hội. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa cũng đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy giao lưu, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao và tiếp nhận công nghệ đào tạo tiên tiến giữa các nhà trường với nhau và tạo nên mối quan hệ liên kết chặt chẽ giữa nhà trường với xã hội.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở Việt Nam, quan hệ của các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp không hề dễ dàng, chủ yếu thông qua các mối quan hệ cá nhân nên hiệu quả không cao. Trong khi đó, thế giới đã và đang tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tận dụng CNTT trong việc kết nối thế giới vạn vật (IoT) trở thành một mạng lưới rộng khắp toàn cầu. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi sẽ nêu ra những khó khăn thách chức của các cơ sở đào tạo MTUD trong việc mở rộng mối liên kết với các doanh nghiệp, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường mối liên kết này bằng cách ứng dụng CNTT trong hoạt động của mỗi bên.

      Thực trạng mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp hiện nay

       Một là, mối quan hệ tương tác giữa nhà trường (là nơi đào tạo nhân lực) và doanh nghiệp (là nơi sử dụng nhân lực) chưa thực sự gắn kết, hoặc gắn kết không hiệu quả. Về phía nhà trường, designer được đào tạo không hướng đến thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Về phía doanh nghiệp, thông tin phản hồi từ thị trường lao động không được cung cấp kịp thời đến cơ sở đào tạo; không có kênh thông tin ngược lại cho cơ sở đào tạo là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho mình. Nguyên nhân chính là do thiếu thông tin.
       Hai là, quan hệ giữa nhà trường với các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu dừng lại ở khâu tìm kiếm việc làm và địa điểm thực tập cho SV. Các lĩnh vực khác như: chuyển giao KHCN, chuyển giao tri thức, biến những ý tưởng thiết kế của GV, SV thành lợi ích cho cả doanh nghiệp và nhà trường hầu như chưa thể triển khai rộng rãi đến với doanh nghiệp. Vấn đề là nhà trường có nhân lực chất lượng cao (GV, SV chuyên môn), có sản phẩm thiết kế rất tốt… nhưng lại không biết triển khai ở đâu, bằng cách nào, với đơn vị nào, với ai… Nguyên nhân chính cũng là vì thiếu thông tin và phương thức truyền thông chưa phù hợp.
      Ba là, thông tin phản hồi và đầu tư để hỗ trợ cho đào tạo của nhà trường từ các Doanh nghiệp còn hạn chế. Luật Giáo dục, điều 97 cũng đề ra trách nhiệm xã hội của các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế là “giúp nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học; tạo điều kiện cho nhà giáo và người học tham quan, thực tập, nghiên cứu khoa học”... Việc các doanh nghiệp đầu tư ngược lại cho trường để hỗ trợ công tác đào tạo, hỗ trợ các nhà thiết kế trẻ trong tương lai nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là cần thiết và cần được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, không phải do doanh nghiệp không muốn hỗ trợ, đầu tư cho các cơ sở đào tạo mà là họ không có kênh liên lạc và xúc tiến việc hỗ trợ đầu tư cho những nhu cầu đào tạo của nhà trường… Vấn đề là hỗ trợ cho ai, đồ án nào, lĩnh vực gì, quyền lợi như thế nào khi hỗ trợ… Nguyên nhân chính cũng là do Doanh nghiệp thiếu thông tin và kênh liên lạc.
      Bốn là, mối quan hệ tương tác giữa nhà trường với doanh nghiệp là nhu cầu khách quan xuất phát từ lợi ích của hai phía. Nhà trường cần phải nhanh chóng cập nhật nhu cầu của thị trường lao động từ doanh nghiệp, thay đổi chương trình đào tạo cho phù hợp, nâng cao chất lượng đào tạo. Trên thực tế, thông tin phản hồi về nhu cầu thì trường (Doanh nghiệp) không phải lúc nào cũng đầy đủ và được cập nhật kịp thời. Do đó mà chương trình đào tạo thường có sự lạc hậu nhất định so với nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp cung cấp/ phản hồi thông tin kịp thời về nhu cầu của thị trường sáng tạo cho các cơ sở đào tạo là quan trọng trong quá trình đổi mới chương trình đào tạo.
      Năm là, hiện nay nhiều SV theo học MTUD chọn ngành nghề sai nguyện vọng và sở trường của họ do thiếu thông tin. Thiếu hệ thống tư vấn từ nhà trường về sở trường và xu hướng phát triển của ngành nghề đào tạo của nhà trường. Thêm vào đó là chất lượng chuyên môn, kỹ năng của SV chưa đáp ứng được nhu cầu nhà tuyển dụng. Thực tế cho thấy tỉ lệ SV trúng tuyển các đợt tuyển dụng của các Doanh nghiêp đạt rất thấp. Doanh nghiệp tuyển được designer nhưng không đúng với ngành nghề cần tuyển. Phải đào tạo lại… Do thiếu thông tin về nhu cầu người tuyển dụng và thành phần tuyển dụng đến được với SV sau khi tốt nghiệp.
Sáu là, năng lực của GV, nghiên cứu viên, chuyên gia của trường đào tạo MTUD còn hạn chế và có phần lạc hậu so với sự phát triển rất nhanh của xã hội. Việc cập nhật thông tin về công nghệ, kỹ thuật hiện đại cũng như những trải nghiệm thực tế trong lĩnh vực công nghệ và công nghiệp sáng tạo của GV chưa được phát huy và chưa được duy trì thường xuyên. Kết nối kiến thức học thuật với thực tiễn xã hội dựa trên các thông tin thu thập được từ các doanh nghiệp của giảng viên còn lúng túng. Điều này cũng một phần là do thiếu cập nhật thông tin…

      Giải pháp ứng dụng CNTT nhằm tăng cường mối liên kết giữa Nhà trường và Doanh nghiệp hiện nay

       Một là, sử dụng kỹ thuật Crawler để lấy thông tin từ website của các doanh nghiệp. Crawler là 1 từ để ám chỉ các công cụ (phần mềm, modules, plugins… hay đơn giản chỉ là 1 funtion nhỏ) có chức năng chính là tự động phân tích dữ liệu từ nguồn nội dung sau đó bóc tách những thông tin cần thiết theo tiêu chí mà nó được lập trình viên hệ thống thiết lập. Do đó có thể dùng thư viện PHPCrawl để lấy dữ liệu tự động từ website của doanh nghiệp [3]. Cách khác để có thông tin từ thị trường/ doanh nghiệp, các trường cần chủ động xây dựng một cổng thông tin (website chính thức), hoặc một chức năng phản hồi tự động từ website của nhà trường. Chức năng này luôn trong trạng thái kết nối “lắng nghe” phản hồi từ thị trường. Bộ phận admin phải cập nhật và có báo cáo hàng tuần về những biến đổi của thị trường, xu thế thiết kế, nhu cầu tuyển dụng, công việc bán thời gian, công việc dành cho các freelancer… để bộ phận phân tích và xử lý thông tin có được một bức tranh tương đối hoàn thiện về nhu cầu thị trường designer.
      Hai là, ứng dụng các phần mềm khảo sát trực tuyến. Thực tế cho thấy, sự lạc hậu tương đối giữa chương trình đào tạo so với sự phát triển của xã hội. Thông qua Internet, chương trình đào tạo MTUD của các cơ sở đào tạo trên toàn thế giới được công khai, so sánh, đối chiếu và có sự kế thừa phát triển một cách nhanh chóng. Trước đây, việc cập nhật một chương trình đào tạo phải trải qua quy trình và tốn khá nhiều thời gian và tiền bạc. Hiện nay, với sự trợ giúp của các công cụ khảo sát trên Internet, nhà trường có thể tiến hành khảo sát nhanh chóng đối với GV, SV, Doanh nghiệp, Chuyên gia, Cựu SV… Ưu điểm là: rẻ hơn, chính xác hơn, phân tích nhanh hơn, dễ dàng sử dụng hơn cho người tham gia, mẫu giao diện đa dạng hơn, trung thực hơn, nhiều lựa chọn và linh hoạt hơn…, Điển hình như có thể sử dụng một số công cụ như: Google+, SoGoSurvey, LimeSurvey, Survey Monkey, Email…
       Để làm tốt công tác quan hệ doanh nghiệp và hỗ trợ sinh viên, qua mỗi đợt thực tập, Nhà trường cần tiến hành khảo sát, lấy ý kiến đánh giá của các doanh nghiệp về kỹ năng, thái độ và nội dung chuyên đề thực tập của sinh viên có phù hợp với lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp hay không. Đồng thời còn đề nghị các đơn vị này cho ý kiến đánh giá thêm về chất lượng đào tạo của trường thông qua chương trình và đề cương thực tập của sinh viên trường trong thời gian thực tập tại đơn vị. Để làm nhanh và hiệu quả, các form khảo sát sẽ được gửi trực tiếp qua email của từng doanh nghiệp hoặc được đăng tải trên website của cơ sở đào tạo… Việc khảo sát nhu cầu nhân lực của thị trường cũng như lấy ý kiến phân tích thị trường lao động của các chuyên gia chưa được thực hiện một cách chuyên nghiệp, có hệ thống và toàn diện nên nội dung chương trình đào tạo chưa thật sự sát với nhu cầu của người sử dụng lao động.
      Ba là, ứng dụng mạng xã hội trong truyền thông hình ảnh của nhà trường và tăng cường tương tác với xã hội. Bộ phận Admin website của các trường có thể theo dõi Facebook, Instagram và Twitter để đánh giá những gì xã hội nghĩ về cơ sở đào tạo. Có thể coi đó là một cách khảo sát thông tin khi so sánh bài viết tích cực và tiêu cực. Hoặc có thể triển khai áp dụng các phần mềm theo dõi social media để khai thác thông tin hơn nữa (data mining). Các bài viết trên social media sẽ thường được ca ngợi hết lời hay phê bình mọi mặt, vì vậy nhà trường sẽ được tiếp xúc với một lượng lớn các thông tin phản hồi [2]. Thêm vào đó, đây còn là một công cụ có thể giúp cơ sở đào tạo so sánh hiệu suất của mình với đối thủ cạnh tranh một cách rõ ràng nhất. Một số mạng xã hội hiện nay có thể khai thác để truyền thông hình ảnh của nhà trường: Facebook, Twister, Linked…
       Bốn là, hiện nay ở các tỉnh/ thành đã có website (sàn giao dịch việc làm) kết nối trực tiếp đến các cổng thông tin điện tử của chính quyền (Tỉnh/ Bộ) hoặc các khu công nghiệp. Thông tin tuyển dụng, yêu cầu chất lượng… Về thông tin việc làm, về định hướng nghề nghiệp, về phát triển kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp, được công khai…. Thí dụ điển hình như trang web http://www.vieclamhcm.net/ [4] của TP.HCM. Kết nối các cơ sở đào tạo MTUD, doanh nghiệp tuyển dụng, hoạt động cộng đồng… Các cơ sở đào tạo cần cung cấp thông tin các khóa học ngắn hạn (sơ cấp nghề, trung cấp nghề), các khóa đào tạo theo đơn đặt hàng giúp doanh nghiệp cập nhật và nâng cao năng lực nguồn nhân lực của họ, hoặc tuyển dụng bán thời gian SV thực tập làm những việc mùa vụ… thay vì phải tuyển dụng mới nhân viên làm việc toàn thời gian.
      Năm là, để ứng dụng CNTT mạnh ở các trường cần triển khai phát triển nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực CNTT (nhân lực chuyên gia có kinh nghiệm CNTT, máy móc, trang thiết bị, phản hồi thông tin, áp dụng KHKT và chuyển giao công nghệ…). Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học ở các trường mặc dù đã được đầu tư với lượng khá đầy đủ để giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh vực MTUD nhưng lại chưa được quản lý và khai thác một cách có hiệu quả [1]. Do đó, nhà trường cần đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, chuyên gia đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao về CNTT và TT. Đây cũng chính là lực lượng trực tiếp xử lý các thông tin về nhu cầu thị trường lao động phản hồi từ các doanh nghiệp để đề xuất một chương trình đào tạo phù hợp. Đồng thời, đây cũng là lực lượng chủ chốt để triển khai việc tiếp thị và chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức cho doanh nghiệp, làm lợi cho nhà trường và cả doanh nghiệp.
Sáu là, khuyến nghị Bộ VH, TT và DL xây dựng một trung tâm cơ sở dữ liệu, kết nối các cơ sở đào tạo trong việc trao đổi nguồn lực: giảng viên, chuyên gia nghiên cứu KHCN, sinh viên, chương trình, học liệu, dự án NCKH… chia sẻ thông tin sinh viên đầu vào, đầu ra… kết nối với các doanh nghiệp hỗ trợ các trường khảo sát thị trường lao động, dự báo nhu cầu nhân lực các ngành nghề cũng như những phân khúc yêu cầu khác nhau. Như vậy, các trường sẽ thuận lợi hơn trong khảo sát thị trường theo đặc thù của đơn vị mình, từ đó quay trở lại xác định mục tiêu đào tạo, định hướng phát triển các ngành nghề đào tạo, điều chỉnh sứ mệnh trường phù hợp với sự phát triển của xã hội.

      Kết luận

      Để biết được nhu cầu của xã hội (doanh nghiệp) về sử dụng nguồn nhân lực, các cơ sở đào tạo buộc phải nghiên cứu thị trường nguồn nhân lực và thỏa mãn nhu cầu của thị trường này. Doanh nghiệp muốn có nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của mình cũng buộc phải tự đào tạo hoặc liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo để có được nguồn nhân lực như mong muốn. Đây chính là mối liên hệ, hợp tác giữa nhà trường vào doanh nghiệp. Bản chất của mối quan này chính là những giao dịch giữa các cơ sở đào tạo và các tổ chức sản xuất kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên.
     Trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ, giáo dục ĐH cũng đang đứng trước nhiều thách thức. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 khiến giáo dục ĐH bị đặt trước nhiều thách thức rất lớn.  Ứng dụng CNTT trong việt đẩy mạnh việc liên kết hợp tác này và khai thác giá trị của nó để đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp, nhà trường và sinh viên/ người học. Nhờ có sợi dây kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp có thể xác lập được một phương thức trao đổi thông tin một cách hợp lý nhằm thúc đẩy sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp cung cấp thông tin một cách kịp thời về nhu cầu lao động và hỗ trợ trong quá trình đào tạo, giúp nhà trường cập nhật chương trình đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo và chuyển giao công nghệ.
 TS. Nguyễn Đức Sơn

Tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Đức Sơn (2013), Một số vấn đề về ứng dụng Công nghệ KTS trong Công nghệ dạy và học thiết kế ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo khoa học Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
  2. Nguyễn Đức Sơn (2014), “Internet trong đào tạo hội họa kỹ thuật số ở Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 366, tháng 12, tr.127-129.
  3. https://goweb.vn/ .
  4. http://www.vieclamhcm.net.
 
 

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết